Chương 4

Sáng thứ Hai, cầm mẩu giấy Mack bỏ trong cái rổ đựng đồ quyên góp, tôi đi đến văn phòng Chưởng lý quận ở khu Manhattan hạ. Trời hôm đó đẹp tuyệt, có nắng và ấm áp với làn gió thoảng thơm ngát, loại thời tiết thích hợp cho Ngày của Mẹ, thay vì một ngày lạnh lẽo và ẩm ướt, làm tiêu tan mọi hy vọng tụ tập ngoài trời.

Mẹ, chú Dev và tôi đã đi ra ngoài dùng cơm tối vào đêm Chủ nhật. Hiển nhiên lá thư ngắn mà chú Dev trao cho chúng tôi khiến mẹ và tôi rơi vào tình trạng bấn loạn. Phản ứng đầu tiên của mẹ là hoảng sợ rằng Mack có thể ở rất gần. Bà đã luôn bị thuyết phục rằng anh ở đâu đó xa xôi tận Colorado hay California. Rồi bà lại lo lắng rằng lời tôi đe dọa tìm cho ra anh sẽ đặt anh vào tình trạng nguy khốn.

Thoạt tiên tôi chỉ đơn thuần không biết phải nghĩ gì về điều đó, nhưng giờ đây tôi ngày càng ngờ vực rằng Mack có thể đang gặp rắc rối và cố gắng đẩy chúng tôi ra khỏi điều đó.

Tiền sảnh ở số 1 Hogan Place đông đặc người và an ninh được thắt chặt nghiêm ngặt. Mặc dù tôi có đầy đủ những giấy tờ nhận dạng, nhưng vì không có cái hẹn cụ thể gặp ai, tôi không thể qua được người bảo vệ. Khi những người xếp hàng sau tôi bắt đầu bồn chồn, nôn nóng, tôi cố gắng giải thích rằng anh trai của tôi bị mất tích, và sau cùng chúng tôi có được một điều chỉ ra nơi chúng tôi có thể bắt đầu tìm kiếm anh ấy.

“Thưa cô, cô cần phải gọi điện thoại đến bộ phận Người mất tích và xin sắp một cuộc hẹn”. Người bảo vệ khăng khăng nói. “Bây giờ thì xin mời cô, vì còn có những người khác cần lên lầu cho công việc của họ”.

Tuyệt vọng, tôi đi ra khỏi tòa nhà, lấy điện thoại di động ra. Thẩm phán Huot đã từng ở tòa án dân sự, mà tôi thì chưa bao giờ có mối liên hệ với những trợ tá biện lý, nhưng tôi thực sự biết một người, Matt Wilson. Tôi gọi điện cho văn phòng Chưởng lý quận và được nối với máy điện thoại của ông ấy. Matt không có mặt ở bàn giấy của ông, và đã thu lại những hướng dẫn thông thường trong máy trả lời tự động: “Hãy để lại tên và số điện thoại cùng lời nhắn ngắn gọn của bạn. Tôi sẽ gọi lại sau cho bạn”.

“Đây là Carolyn MacKenzie”. Tôi bắt đầu. “Chúng ta đã gặp nhau vài lần. Tôi là luật sư phụ tá của thẩm phán Huot. Anh trai tôi đã bị mất tích mười năm. Anh ấy để lại cho tôi lá thư ngắn ngày hôm qua trong nhà thờ trên đại lộ Amsterdam. Tôi cần giúp đỡ để xem chúng ta có thể truy tìm ra anh ấy không trước khi anh ấy lại biến mất dạng”. Tôi kết thúc bằng cách cung cấp số điện thoại di động của mình.

Tôi đang đứng trên những bậc tam cấp. Một người đàn ông đi ngang qua, người này có bờ vai ngang, trong tầm tuổi năm mươi với mái tóc xám cắt sát và sải bước đầy vẻ tự tin, quả quyết. Tôi có thể nói rằng ông ta đã nghe thấy tôi nói, vì, có điều gì đó do sự mất tinh thần của tôi khiến ông dừng bước và quay người lại. Trong phút chốc mắt chúng tôi giao nhau và ông đột ngột thốt lên: “Tôi là thám tử Barrott. Tôi sẽ đưa cô lên lầu”.

Năm phút sau tôi ngồi trong một văn phòng nhỏ, tồi tàn có cái bàn giấy, vài chiếc ghế và những chồng hồ sơ. “Chúng ta có thể nói chuyện trong này”. Ông nói. “Trong phòng ấy quá ồn ào”.

Ông không hề rời mắt khỏi khuôn mặt tôi trong lúc tôi kể về Mack. Ông chỉ ngắt lời tôi để hỏi vài câu. “Những cuộc gọi chỉ vào Ngày của Mẹ à?”

“Đúng vậy”.

“Chẳng bao giờ hỏi xin tiền à?”

“Không hề”. Tôi đã đặt lá thư ngắn đó vào trong cái túi nhựa đựng bánh mì sandwich. “Tôi không biết là dấu vân tay của anh ấy có còn trên đó không”. Tôi giải thích. “Dĩ nhiên trừ phi anh ấy nhờ ai đó bỏ vào cái rổ hộ mình. Có vẻ như thật điên khùng nếu anh ấy muốn tạo cơ hội cho chú Dev phát hiện ra anh ấy ngay tại bệ thờ”.

“Cũng còn tùy. Cậu ấy có thể nhuộm tóc, có thể nặng thêm khoảng mười kilogram, đeo kính đen. Chẳng khó khăn gì để cải trang trong đám đông, đặc biệt khi người ta mặc áo mưa”.

Ông nhìn vào mẩu giấy. Chữ viết thật dễ nhìn xuyên qua lớp nhựa. “Chúng tôi có dấu vân tay của anh cô trong hồ sơ không?”

“Tôi không chắc lắm. Vào thời điểm chúng tôi báo cáo về vụ mất tích của anh ấy, người quản gia của chúng tôi đã quét dọn và hút bụi căn phòng của anh ở nhà. Anh sống chung trong căn hộ sinh viên với hai người bạn, và giống như hầu hết các nơi chốn khác, có ít nhất hàng tá người khác ra vào mỗi ngày. Xe hơi của anh đã được chùi rửa sạch sẽ sau lần cuối cùng anh sử dụng nó”.

Barrott trả nó lại cho tôi. “Chúng tôi có thể chạy tờ giấy này qua máy để in ra dấu vân tay, nhưng tôi có thể nói ngay bây giờ với cô là chúng ta sẽ chẳng lấy được cái gì cả. Cô và mẹ cô đã cầm nó rồi. Chú cô, vị mục sư cũng đã cầm. Người dẫn chỗ đem tờ giấy này đến cho chú cô cũng đã làm thế rồi. Tôi đoán rằng có thể còn một người dẫn chỗ khác đã chạm tay vào thu gom các món đồ quyên góp”.

Cảm thấy cần đưa thêm thông tin, tôi nói: “Tôi là em gái duy nhất của Mack. Cha mẹ tôi và tôi đã đi đến trình bày sự việc ở phòng xét nghiệm DNA tìm người thân trong gia đình. Nhưng chúng tôi chẳng nghe thấy điều gì từ họ, vì thế tôi đoán là họ chẳng tìm ra bất kỳ ai có sự trùng khớp một phần nào cả”.

“Cô MacKenzie, từ những điều cô kể cho tôi nghe, anh trai của cô đã tự ý biến mất mà tuyệt đối chẳng có lý do gì cả. Có lẽ cô đã từng xem vài chương trình tội phạm trên truyền hình và có lẽ cô cũng đã từng nghe nói rằng khi người ta biến mất, lý do thường thấy là sự tích tụ những rắc rối hoặc do tình yêu, hoặc do tiền bạc. Vị hôn phu bị phụ bạc, ông chồng hay bà vợ ghen tuông, người hôn phối gây phiền phức, cơn nghiện thuốc điên cuồng cần thỏa mãn. Cô cần phải xem xét lại những ý nghĩ mà cô đã định trước về anh trai mình. Cậu ấy hai mươi mốt tuổi lúc đó. Cô nói rằng cậu ấy rất được lòng các cô gái. Có cô gái nào đặc biệt không?”

“Bạn bè anh ấy không kể cho chúng tôi biết về ai cả. Chắc chắn không ai từng được dẫn ra mắt”.

“Ở tuổi cậu ấy, có rất nhiều người mạo hiểm lắm. Ngày càng có nhiều người thử các loại thuốc kíƈɦ ŧɦíƈɦ và có thể trở nên nghiện ngập. Giả sử cậu ta mắc nợ thì sao? Cha mẹ cô sẽ phản ứng như thế nào về điều này?”

Tôi thấy mình ngập ngừng không muốn trả lời. Thế rồi tôi tự nhắc mình rằng đây là những câu hỏi mà cách đây mười năm cha mẹ tôi chắc chắn đã được hỏi. Tôi tự hỏi không biết họ có lẩn tránh, thoái thác không. “Cha tôi hẳn sẽ rất tức giận”. Tôi thừa nhận. “Ông không chấp nhận những kẻ ném tiền qua cửa sổ. Mẹ tôi có khoản thu nhập riêng từ số tài sản thừa kế. Nếu Mack cần tiền, anh ấy có thể lấy từ bà, và bà sẽ chẳng nói gì với cha tôi”.

“Thôi được rồi, cô MacKenzie. Tôi sẽ vô cùng thành thật với cô. Tôi không nghĩ chúng ta có một tội ác ở đây, do vậy chúng ta không cần xử trí trường hợp biến mất của anh cô như là một tội ác. Cô không thể tưởng tượng được mỗi ngày có bao nhiêu người đã bước ra khỏi cuộc sống của họ đâu. Họ bị khủng hoảng. Họ không thể đương đầu, hay thậm chí còn tồi tệ hơn, họ không còn muốn kháng cự nữa. Anh trai của cô vẫn gọi cho cô đều đặn…”

“Mỗi năm một lần”. Tôi ngắt ngang.

“Vẫn là đều đặn. Cô đã bảo với cậu ấy rằng cô sẽ truy tìm cậu ta, và cậu ta đã đáp lại ngay lập tức. “Hãy để anh yên thân” là lời nhắn cậu ấy gửi cho cô. Tôi biết nghe thế có vẻ xẵng quá, nhưng lời khuyên của tôi sẽ làm cho cô ý thức được rằng Mack đang ở nơi cậu ấy muốn ở và mối liên lạc duy nhất cậu ấy muốn có với cô và mẹ cô là cuộc gọi điện thoại hằng năm vào Ngày của Mẹ. Hãy làm một ân huệ cho cả ba người. Hãy tôn trọng những ước muốn của cậu ấy”.

Ông đứng lên. Rõ ràng cuộc phỏng vấn của chúng tôi đã kết thúc. Rõ ràng tôi không nên tốn phí thời gian với văn phòng cảnh sát lâu hơn. Tôi nhặt lá thư ngắn lên, và như đã từng làm, đọc lại lời nhắn. “CHÚ DEVON, BẢO CAROLYN KHÔNG ĐƯỢC PHÉP TÌM KIẾM CHÁU”.

“Ông quả là rất… thành thực, thám tử Barrott”. Tôi nói, thay thế từ “giúp ích” bằng từ “thành thực”. Suy cho cùng tôi chẳng hề nghĩ rằng ông ấy giúp ích được. “Tôi hứa sẽ không làm phiền ông nữa”.