Rồi chàng nhắm nghiền hai mắt, dứt khoát quay người định bay đi. Nhưng đúng lúc ấy, có một cơn gió nhẹ thổi tới, kèm theo tiếng khóc lóc của trẻ con: “Cha, mẹ! Các người ở đâu…?”
Chàng thanh niên ngẩn ra, vô thức nhìn xuống dưới. Chỉ thấy dưới chân một ngọn núi nhỏ, có một đứa trẻ tầm bốn năm tuổi bị ngã lăn lộn ở đó. Trên người nó đầy máu tươi, còn miệng thì mếu máo kêu cha gọi mẹ. Chàng thanh niên thấy thế vội đáp xuống trước mặt đứa trẻ, đang định đỡ nó dậy thì cả người bỗng sững lại, nhìn chằm chằm vào khuôn mặt nó. Khuôn mặt non nớt đó không có gì đặc biệt lắm, chỉ là đôi mắt của đứa trẻ tựa hồ vô thần, hình như nó bị mù. Có điều chàng thanh niên không quan tâm đến việc đứa trẻ có bị mù hay không, chàng chỉ quan tâm đến đường nét trên khuôn mặt của nó. Cảm giác khuôn mặt ấy vô cùng quen thuộc, rất giống với cố nhân của mình. Nhưng trong giây lát chàng thanh niên đã trấn định lại, chàng hiểu được đứa trẻ cùng cố nhân là hai người hoàn toàn khác nhau. Chàng thở dài một hơi rồi bước lên đỡ đứa trẻ dậy, bàn tay phe phẩy một cái khiến những vết thương trên người đứa trẻ trong khoảnh khắc đã biến mất. Đứa trẻ bỗng thấy cả người mình được đỡ lên, mọi đau đớn trên cơ thể cũng tan biến trong nháy mắt. Nó không khỏi ngẩn ngơ, đưa tay với lấy hơi ấm đang đứng bên cạnh mình, hỏi: “Cha, cha phải không?”
Thanh niên cười đáp: “Ta không phải cha ngươi? Ta là…”
Chàng chưa kịp nói xong thì đứa trẻ đã mừng rỡ hô lên: “Con biết rồi! Người không phải cha con, cha con làm sao có thể chữa thương cho con nhanh như vậy. Người nhất định là tiên nhân, phải rồi! Chắc chắn người là tiên nhân!”
Chàng thanh niên nhìn đứa trẻ với ánh mắt đầy thâm thúy, cuối cùng mới nói: “Tiên nhân à! Ta không phải tiên nhân, trên đời này không có tiên nhân, ta cũng không muốn làm tiên nhân.”
Đứa trẻ ngạc nhiên hỏi: “Người không muốn làm tiên nhân ư? Con nghe Đổng gia gia nói tiên nhân trường sinh bất tử, có thể phi thiên độn địa, tiêu dao khắp nơi trong trời đất, không gì không làm được. Tại sao người lại không muốn chứ?”
Thanh niên mỉm cười, vừa xoa đầu đứa trẻ vừa nói: “Trường sinh bất tử, phi thiên độn địa thì sao chứ? Cứ cho là trên đời có tiên nhân như thế thì họ cũng không tiêu dao tự tại như ngươi nghĩ đâu!”
Đứa trẻ tò mò hỏi: “Tại sao lại vậy?”
Chàng thanh niên trả lời: “Lớn lên ngươi sẽ hiểu.”
Đứa trẻ nghe không hiểu, trong đầu đầy mờ mịt, nhưng trong chốc lát đã gạt mọi thứ ra khỏi đầu, cất giọng hỏi thanh niên: “ Vậy người là ai?”
Thanh niên đáp: “Ta là ai không quan trọng. Sau này, chúng ta chắc gì đã gặp lại nhau, hà tất phải biết tên tuổi của nhau. Thôi thì đã gặp lần này xem như là có duyên, ta sẽ tặng ngươi một món quà nho nhỏ. Hi vọng sau này ngươi sẽ có một cuộc sống thật tốt.”
Nói rồi chàng phất tay lên, một cỗ lực lượng huyền ảo từ tay chàng truyền ra, thẳng đến đôi mắt của đứa trẻ. Đứa trẻ bỗng thấy cả người chấn động, đôi mắt hơi đau nhức rồi khẽ chớp động, như thể đã cảm ứng được điều gì. Nó chỉ thấy màn đen trước mắt bỗng lóe sáng, theo tiềm thức giơ tay lên che mắt, mọi thứ dần dần hiện lên rõ nét. Đứa trẻ mừng rỡ buông tay xuống, muốn nhìn xem người đã giúp mình khi nãy là ai, nhưng nó nhìn ngó xung quanh lại chẳng thấy một bóng người, tựa như việc khi nãy chỉ là một hồi mộng huyễn. Nhưng lúc này đứa trẻ thực sự đã không còn bị mù nữa, nên nó hiểu được việc khi nãy không phải là mộng huyễn gì cả. Đang lúc nó định cất giọng gọi ân nhân của mình thì từ phía sau chợt truyền đến những tiếng hô mang theo đầy lo lắng: “Mặc nhi, con ở đâu? Mặc nhi…”
Đứa trẻ vội quay đầu lại, thấy cuối khu rừng có hai người đang la gọi đến khàn cả giọng. Hai thân ảnh đó rất lạ lẫm đối với nó, nhưng giọng nói của họ lại không hề lạ lẫm. Tiếng thanh là giọng mẹ, tiếng trầm là giọng cha. Thường ngày nó vẫn cảm nhận như vậy nên giờ nghe họ gọi thì nó lập tức chạy tới, miệng cũng hô: “Cha, mẹ! Con ở đây!”
Hai người kia đúng là một nam một nữ, họ nghe thấy tiếng hô của đứa trẻ thì mừng rỡ quay sang. Nữ tử nhìn thấy đứa trẻ chạy tới thì ôm trầm lấy nó, miệng nói lời đầy thương yêu: “Con ngoan! Con không sao chứ.”
Nam tử bên cạnh cũng chạy tới bên cạnh, định vỗ về đứa trẻ thì giật mình phát hiện ra điều lạ, nên lấy tay xua xua trước mắt nó, kinh hãi hỏi: “Mặc nhi! Mắt của con…mắt của con chẳng lẽ đã nhìn thấy rồi…?”
Đứa trẻ lúc này mới định thần lại, nhìn kỹ hai người trước mắt. Cha nó là một nam tử tuổi gần ba mươi, gương mặt khá bình dị và hiền hòa. Còn mẹ của nó là một nữ tử mới ngoài đôi mươi, quần áo tuy lam lũ nhưng vẫn không che đi được tư dung xinh đẹp của nàng. Thì ra cha mẹ của nó trông như vậy, lúc này nó mới hay giá trị của đôi mắt là như thế nào. Nghe cha nó hỏi, đứa trẻ liền trả lời: “Lúc nãy con gặp phải một người kỳ lạ, không biết người đó làm gì mà đôi mắt con lại có thể nhìn thấy được. Người đó lại nói bản thân không phải tiên nhân…thật khó hiểu!”
Nam tử nghe thế thì vô cùng chấn kinh nhưng sau đó lại cười lên ha hả, xoa đầu đứa trẻ, nói: “Con của ta, con gặp quý nhân rồi. Đi! Theo ta về thôn, hôm nay ta phải thịt gà chiêu đãi cả thôn.”
Nử tử cũng mừng rỡ khi biết con mình được quý nhân giúp đỡ, nhưng khi nghe nam tử nói muốn thịt gà đãi cả thôn thì lườm chồng một cái nói: “Cái tên này, gà đâu ra lắm thế, thì dăm con chiêu đãi đám Trương, Lý trong thôn là được rồi.”
Đứa trẻ nghe nói hôm nay có thịt gà ăn thì vỗ tay: “Hoan hô! Hôm nay, được ăn thịt gà rồi, tối ngày ăn thịt lợn chán chết.”
Cha mẹ nó nghe thế thì mỉm cười, dắt nó quay về thôn.
***
Cách đó không xa có một thôn nhỏ gọi là Hạnh Hoa thôn, nhân khẩu hơn trăm hộ. Thôn dân sống bằng nghề trồng trọt và chăn nuôi là chính, tất cả đều là tự cung tự cấp. Cho nên người dân trong thôn
vô cùng gần gũi và thân thuộc.
Đứa trẻ khi nãy tên là Vương Mặc, năm nay vừa tròn năm tuổi. Từ nhỏ Vương Mặc đã bị mù bẩm sinh, tuy cuộc sống của nó thiếu thốn ánh sáng nhưng lại đầy ắp tình thương. Vương Mặc không chỉ được cha mẹ nuông chiều, mà cả hương thân phụ lão trong thôn cũng rất yêu quý nó. Những đứa trẻ khác trong thôn cũng không vì Vương Mặc bị mù mà dè bỉu, hơn nữa vẫn luôn quan tâm, chăm sóc nó rất nhiệt tình.
Chỉ là hôm nay, Vương Mặc mải chơi, đi lung tung khiến nó bị lạc ở sau núi, làm cha mẹ nó phải lo lắng một phen. May mà Vương Mặc có quý nhân cứu giúp, chẳng thế mà còn nhân họa đắc phúc, từ một đứa trẻ mù lòa nay đã thành một đứa trẻ có đôi mắt sáng như bình thường. Thôn dân nghe tin này liền tới tấp tới nhà Vương phụ để chúc mừng, đồng thời họ cũng vô cùng hâm mộ Vương Mặc đã gặp được quý nhân. Tuy Vương Mặc nói quý nhân đó không phải tiên nhân nhưng người ngoài dùng mông cũng nghĩ ra đó nhất định là thần tiên. Một đứa trẻ bị mù bẩm sinh sao có thể nhìn được chứ, cứ cho trên đời có loại đại phu làm được điều này thì cũng không phải chỉ giơ tay nhấc chân mà có thể làm được, trừ phi vị đại phu đó cũng là tiên nhân.
Tiên nhân trong tri thức của người dân Hạnh Hoa thôn được biết đến qua một người gọi là Đổng lão. Đổng lão là một lão nhân tầm ngoài bảy mươi, lưng hơi gù, râu tóc đã bạc trắng, có vẻ như cũng gần đất xa trời rồi. Lão nghe tin Vương Mặc được “tiên nhân” cứu giúp thì lập tức chống gậy đi sang nhà Vương phụ. Vương phụ tên là Vương Dũng, thấy Đổng lão chống gậy đến thì lập tức bước ra đỡ lấy lão, khách khí nói: “Thì ra là Đổng gia tới thăm, con mới bảo Mặc nhi sang bên đó gọi người sang chơi. Nào ngờ người lại đích thân sang đây, làm con không kịp đón tiếp cẩn thận.”
Đổng lão trêu cợt nói: “Cần gì phải đón tiếp cái thân già này, chẳng phải nhi tử của ngươi gặp được tiên nhân hay sao? Tiên nhân cơ đấy…khục khục.”
Vương Dũng nghe thế thì cười khổ đáp: “Lão nhân gia người nói đùa rồi, tiên nhân đâu thèm để mắt tới một tên oắt con như thế chứ!”
Đổng lão trừng mắt nhìn Vương Dũng, nói: “Không phải tiên nhân thì ai chữa mắt cho tên oắt con kia. Đừng tưởng lão phu đã già mà ngươi có thể bịp được lão phu.”
Vương Dũng vội vàng bào chữa: “Con nào dám thế, chỉ là trong chuyện này có đôi điều cổ quái, còn cần lão nhân gia người giải đáp đây.”
Nói rồi hắn mời Đổng lão vào trong nhà, sau đó lấy ra một chiếc ghế dựa cho lão ta ngồi. Đổng lão tựa lưng vào ghế, nhẹ giọng hỏi: “Ngươi cần ta giải đáp điều gì?”
Vương Dũng đáp: “Người cứ bình tĩnh, đợi Mặc nhi đi tìm hai người Trương, Lý tới đây đã. Hôm nay Uyển nhi sẽ thịt gà thiết đãi mọi người.”
Đổng lão giật bắn người lên, dãi miệng chảy ra, bắt lấy tay Vương Dũng, hỏi: “Cái gì! Ngươi nói Uyển nha đầu nay sẽ thịt gà đãi ta à. Con bà nó, sao ngươi không nói sớm, để ta mang theo Lan Hương Tửu nhấm cùng thì có phải ngon không?”
Vương Dũng cười ha hả, vào trong nhà lấy ra ba hũ rượu lớn, rồi đem ra ngoài nói: “Ha ha, Lan Hương Tửu thì nhà con cũng có. Ba hũ này được phụ thân của con dưỡng đã mười năm rồi.”
Đổng lão thấy thế thì cặp mắt sáng lên, không nhịn được vỗ một phát vào cái bàn trước mặt, nói: “Hảo tiểu tử! Giỏi nhịn lắm! Hồi lấy Uyển nha đầu ngươi còn không đem ra uống, tính ủ rượu đúng mười năm sao. Khà khà, mười năm…mười năm rượu mới thơm.”
Vương Dũng cũng gật đầu vâng dạ. Lát sau, đứa trẻ Vương Mặc dắt theo hai người đàn ông vào nhà, một người lưng hùm vai rộng, để râu quai nón, tướng mạo khá hung tợn, người kia thì hơi gầy, để ria mép, trông hiền hòa hơn. Cả hai đều trạc tuổi Vương Dũng, xem ra là bạn đồng lứa trong thôn. Vương Mặc dẫn hai người vào nhà, rồi nói to một tiếng như khoe thành tích: “Cha, con dẫn Trương thúc và Lý thúc sang nhà rồi này. Có điều tìm nhà Đổng gia…”
Nó nói còn chưa dứt câu thì đã nhìn thấy một lão nhân đang ngồi trong nhà, không phải Đổng lão thì là ai. Nó mừng rỡ hô lên: “A, Đổng gia gia, người sang nhà con hồi nào thế.”
Đổng lão cốc đầu đứa trẻ một cái, nói: “Thằng nhóc, lão phu hôm nay cảm giác có điềm lành nên mới đích thân chống gậy sang đây, quả nhiên có thịt gà đang chờ ta chén. Đợi ngươi dẫn được ta sang thì thịt gà đã bị bọn kia đớp hết rồi, lão phu sang để gặm xương à.”
Mọi người nghe thế đều cười khục khịch, rồi hai người mới tới đều bước tới chào Đổng lão: “Trương Đồng (Lý Hạc) bái kiến Đổng gia, lão nhân gia vẫn khỏe chứ?” Rồi quay sang Vương Dũng: “Vương huynh, chúc mừng nhà huynh có quý nhân phù trợ.”
Đổng lão gật đầu: “Khỏe, đương nhiên là vẫn khỏe. Thế mới có sức đọ rượu với các ngươi chứ.”
Vương Dũng cũng đáp: “Hôm nay chỉ gặp may thôi, các người cứ ngồi vào bàn đi, lát nữa Uyển nhi sẽ đem thức ăn lên.”
Hai ngươi nghe thế đều nhịn không được ngồi xuống, cái bụng của Đổng lão cũng rục rịch mấy tiếng không yên. Mấy người cứ ngồi bên bàn như vậy mà nói chuyện phiếm. Được một hồi, bỗng có hương thơm nghi ngút từ dưới nhà bốc lên, một nữ tử xinh đẹp bưng thức ăn đưa lên bàn. Nữ tử ấy chính là mẹ của Vương Mặc, khuê danh Tiểu Uyển. Nàng vừa bưng từng đĩa thức ăn lên bàn vừa cười nói: “Lâu lắm trong nhà không có chuyện gì vui như vậy, mọi người cứ ăn uống thoải mái đi.”
Lý Hạc hít một cái rồi nói với Tiểu Uyển: “Tay nghề của tẩu tẩu là lợi hại nhất thôn này, mới hít vài hơi thôi mà đã cảm giác thấy ngon rồi.”
Đổng lão cũng cười: “Khà khà, thơm quá! Nhanh nào Uyển nha đầu! Nhanh tay rồi ngồi xuống đây cùng chúng ta đánh chén.”
Tiểu Uyển vâng dạ một tiếng, sau khi dọn xong thức ăn thì lấy một cái ghế ra ngồi cạnh Vương Mặc. Còn Vương Dũng thì lấy vò Lan Hương Tửu ra rót vào ly cho ba vị khách, sau đó nâng chén nói: “Hôm nay, nhân dịp nhi tử Mặc nhi được kỳ nhân cứu giúp, Vương Dũng ta mời mọi người tới đây cùng chung ly rượu chúc mừng. Nhân tiện cũng có đôi điều thắc mắc, mong được Đổng gia giải đáp.”
Nói rồi hắn uống cạn ly rượu của mình, ba người khách cũng nhanh chóng cạn ly, rồi Đổng lão quay sang hỏi Vương Dũng: “Thế nào, ngươi có thắc mắc gì?”
Vương Dũng gật đầu nói: “Con muốn xin một ít kiến giải của người về tiên nhân. Con biết thời trẻ người từng đi rất nhiều nơi, kiến thức hẳn là không ít, chắc là cũng biết đôi chút về tiên nhân.”
Hai người Trương Đồng và Lý Hạc cũng tò mò nhìn sang Đổng lão, mong muốn nghe được chút chuyện của tiên nhân. Đổng lão thâm thúy nhìn Vương Dũng, trầm tư giây lát rồi đáp: “Tiên nhân à! Thôi được rồi, ta sẽ nói hết những điều ta biết cho ngươi.”
Lão dừng một chút, gắp một miếng thịt gà rồi nói tiếp: “Tiên nhân cao cao tại thượng trong mắt thường nhân chúng ta thực ra cũng xuất phát từ những con người bình thường. Không biết từ bao giờ, con người đã muốn thoát khỏi ràng buộc của sinh tử, muốn trở nên trường thọ như trời đất. Trải qua vô số năm đúc kết, dần dần người ta đã sáng tạo ra các đạo pháp tu luyện. Tuy không giúp con người thọ ngang trời đất, nhưng nếu tu hành tới mức thâm sâu thì cũng có thể thọ đến ngàn năm. Chẳng những tu hành đạo pháp giúp người ta trường thọ, nó còn giúp người tu luyện có được phép thuật thần thông kinh nhân, vượt ngoài tưởng tượng của thường nhân chúng ta. Những người tu hành đạo pháp đó tự xưng là tu tiên giả, có điều trong mắt thường nhân chúng ta thì họ chẳng khác gì thần tiên. Cho nên tiên nhân theo hiểu biết của ta chính là những người tu hành đạo pháp đó.”
Mọi người nghe Đổng lão kể không khỏi hít vào một hơi, Trương Đồng hứng thú hỏi: “Nói như vậy, nếu chúng ta tu hành đạo pháp thì cũng có thể thành tiên nhân rồi.”
Đổng lão lắc đầu đáp: “Không! Muốn tu hành đạo pháp thì trên mình phải mang linh mạch. Chỉ cần bát mạch của các ngươi có ít nhất một mạch có linh tính thì có thể tu hành đạo pháp. Đáng tiếc trong cả vạn người cũng chưa chắc có một người như vậy, cho nên muốn thành tiên cũng phải có duyên.”
Lý Hạc hỏi: “Làm sao có thể xác định trên người chúng ta có linh mạch hay không?”
Đổng lão mỉm cười thâm thúy nói: “Sống với các ngươi nhiều năm, ta đương nhiên là biết.”
Vương Dũng hô lên đầy ngạc nhiên: “Làm sao có thể?”
Đổng lão hỏi lại: “Ngươi thực sự muốn biết?”
Vương Dũng gật đầu, Đổng lão trâm tư giây lát, như hồi tưởng lại điều gì. Cuối cùng lão mới nói: “Thực ra ta…đã từng là…một tu tiên giả.”
Mọi người há hốc mồm: “Cái gì! Người…người từng là tiên nhân sao.”
Đổng lão uống một hớp rượu rồi chép miệng nói: “Tiên nhân gì chứ, chẳng phải bây giờ ta cũng là một lão già sắp chết hay sao.”
Rồi lão thở dài: “Hài, vốn trước đây ta là một tu tiên giả tu vi không tệ. Đáng tiếc, vì một lần nguy kịch mà ta đã dùng bí pháp giữ mạng. Tuy cuối cùng may mắn sống sót nhưng tu vi, linh mạch cũng đã bị hủy hết. Cho nên ta mới tới Hạnh Hoa thôn ẩn cư, điều này ta cũng chẳng muốn giữ bí mật làm gì. Dù sao bây giờ ta cũng chẳng khác gì thường nhân, cũng chẳng có kẻ thù nào muốn hại ta cả nên cũng không cần giấu giếm. Có điều tuy tu vi của ta không còn, nhưng nhãn quan còn đó, vẫn thấy được các ngươi và cả thôn này không ai có linh mạch cả.”
Mọi người lúc này mới hiểu, cũng rõ ràng vì sao lịch duyệt của Đổng lão nhiều như vậy, hóa ra lão ấy từng là tiên nhân. Bỗng Tiểu Uyển đột nhiên hỏi: “Nói như vậy, người chữa mắt cho Mặc nhi hôm nay là tiên nhân hay sao?”
Đổng lão gật đầu: “Có thể coi là như vậy, xem ra đứa trẻ này thật may mắn. Ta tự hỏi cho dù bản thân tu vi đầy đủ cũng không thể chữa được mắt cho nó. Dù sao tên oắt con cũng bị mù bẩm sinh chứ không phải hậu thiên mà ra.”
Có điều Vương Mặc khi ấy đột nhiên lại nói: “Nhưng sao người đó lại nói bản thân mình không phải là tiên nhân. Người đó còn nói trên đời này không có tiên nhân, lại còn nói bản thân mình không muốn làm tiên nhân?”
Đổng lão nhăn mày, cuối cùng mới nói: “Đúng là trên đời này không có tiên nhân thực sự, ít nhất theo ta biết là như thế. Nghiêm chỉnh mà nói, người kia hẳn là một tu tiên giả đạo pháp cao thâm nào đó, nhưng sao người đó không muốn làm tiên nhân thì ta cũng không hiểu được.”
Tất cả mọi người cũng không hiểu, tiên nhân là trường sinh bất tử, có thần thông đạo pháp vô biên, là ước vọng của vô số người, nhưng người đó lại không muốn. Đột nhiên, Tiểu Uyển đứng lên rót rượu cho mọi người, rồi cười nói: “Hì hì, chúng ta là phàm nhân sao lại thắc mắc chuyện của tiên nhân như vậy. Đã không làm tiên được thì làm một người thường thật tốt đi.”
Mọi người bỗng giật mình thông suốt, cùng nhau cười ồ lên, rồi đánh chén một trận thỏa thích. Hôm đó nhà Vương Dũng liên hoan đến tận khuya, ai nấy đều say khướt, tất nhiên trừ Tiểu Uyển và Vương Mặc ra. Đúng là:
Đêm khuya cùng uống rượu
Nghe kể chuyện tiên nhân
Tiên phàm tuy xa cách
Mà ngỡ như thật gần.
***
Muốn biết chuyện tiếp theo thế nào, mời xem hồi sau sẽ rõ.